Cuộc đời Ni_Kham

Ni Kham sinh vào giờ Mùi, ngày 11 tháng 5 (âm lịch), năm Minh Vạn Lịch thứ 38 (1610), trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là cháu nội của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, con trai thứ ba của Quảng Lược Bối lặc Chử Anh[1]. Mẹ ông là Kế Phu nhân Nạp Lạt thị, con gái của Thanh Giai Nỗ[2].

Giữa những năm Thiên Mệnh, ông có công chinh phạt các bộ Đa La Đặc (多罗特), Đổng Quỳ (董夔).

Năm Thiên Thông thứ 9 (1634), đại quân phạt Minh, ông theo Đa Đạc suất quân yểm trợ tiến vào Cẩm Châu, đánh bại quân Minh.

Năm Sùng Đức nguyên niên (1636), nhờ quân công mà được phong Cố Sơn Bối tử[3]. Theo Hoàng Thái Cực tấn công Triều Tiên, cùng Đa Đạc truy đuổi Triều Tiên Nhân Tổ Lý Tông đến Nam Hán Sơn Thành, tiêu diệt viện binh của Triều Tiên[4].

Năm thứ 2 (1637), tháng 4, được đề bạt nhậm Nghị chính.

Năm thứ 4 (1639), Hoàng Thái Cực tấn công nhà Minh, ông theo A Tế Cách tấn công Tháp Sơn, Liên Sơn.

Năm thứ 7 (1642), đóng giữ ở Cẩm Châu.

Năm Thuận Trị nguyên niên (1644), theo Đa Nhĩ Cổn tiến vào Sơn Hải Quan, đánh bại Lý Tự Thành, cùng A Tế Cách truy kích đến Khánh Đô, nhờ quân công được tấn phong Đa La Bối lặc[5]. Sau lại cùng Đa Đạc suất quân từ Mạnh Tân đến Thiểm Châu, đánh bại quân Minh[6].

Năm thứ 2 (1645), đại quân đến Đồng Quan, Lý Tự Thành phái Lưu Phương Lượng suất quân chống trả, ông cùng Ba Nhã Lạt Đạo Chương kinh Đồ Lại đánh giáp công từ hai mặt, thu hoạch được hơn ba trăm con ngựa. Sau ông lại cùng Bối tử Thượng Thiện [Chú 2] đánh bại kỵ binh của địch, bình định Hà Nam, được ban thưởng một cung tên.

Tháng 5 cùng năm, theo Đa Đạc tấn công Nam Đô của nhà Minh, bắt được Minh Phúc vương Chu Do Tung. Tiếp tục tấn công đánh hạ được Giang Âm. Sau khi đại quân khải hoàn trở về, ông được ban thưởng hai trăm lượng vàng, năm ngàn lượng bạc, một bộ yên ngựa và năm con ngựa.

Năm thứ 3 (1646), ông cùng Hào Cách xâm nhập vào Thiểm Tây, tấn công Hán Trung, Tứ Xuyên, và đàn áp phản quân của Trương Hiến Trung. Ông tiếp tục cùng Bối tử Mãn Đạt Hải bình định Tuân Nghĩa, Quỳ Châu, Mậu Châu, Long Xương, Phú Thuận, Nội Giang, Tư DươngTứ Xuyên.

Năm thứ 5 (1648), đại quân khải hoàn trở về, ông tiếp tục cùng A Tế Cách bình định thổ khấu ở Thiên Tân, nhờ quân công được tiến phong Kính Cẩn Quận vương (敬谨郡王)[5].

Năm thứ 6 (1649), ông được phong làm Định Tây Đại tướng quân[5], thảo phạt phản tướng Khương Tương. Đa Nhĩ Cổn đến Đại Đồng chiêu hàng Khương Tương, ông được tiến phong Kính Cẩn Thân vương.

Năm thứ 7 (1650), cùng Tốn Thân vương Mãn Đạt Hải, Đoan Trọng Thân vương Bác Lạc [Chú 3] quản lý sự vụ Lục bộ. Đa Nhĩ Cổn phái Thượng thư A Cáp Ni Kham nghênh đón Vương đệ của Triều Tiên, A Cáp Ni Kham thỉnh cầu ông đồng ý cho Chương kinh Ân Quốc Thái thay thế nghênh đón, sau sự tình bị phát hiện, ông vì bao che cho A Cáp Ni Kham mà bị hàng làm Quận vương[7].

Năm thứ 8 (1651), tháng 3, chưởng quản Lễ bộ, sự vụ Tông Nhân Phủ. Tháng 5, được phục phong Thân vương[8]. Nhưng lại vì không bẩm báo việc A Tế Cách tàn trữ riêng binh khí mà bị hàng làm Quận vương, vài tháng sau thì phục phong Thân vương.

Năm thứ 9 (1652), tháng 7, đám người Tôn Khả Vọng tấn công Hồ Nam, ông được phong làm Định Viễn Đại tướng quân, đem quân đi chinh phạt. Sau khi Lý Định Quốc chiếm được Quế Lâm, một lần nữa ông được phái đến Quảng Tây tiêu diệt. Tháng 11, đại quân đến Hàng Châu, đám tướng lĩnh nhà Minh liền bỏ trốn. Bối lặc Truân Tề [Chú 4] ra lệnh chia quân thăm dò địch ở Bảo Khánh, gặp địch, ông suất quân đánh bại hoàn toàn. Lại tiến quân tấn công Toàn Châu, phá năm trại lính, trảm chín văn võ quan lại và bè đảng hơn bốn ngàn người, đánh hạ Hưng An, Quán Dương, trảm thủ hạ của Lý Định Quốc là Nghê Triệu Long. Ni Kham liên tục truy kích hơn hai mươi dặm, đại quân muốn rút lui, nói: "Quân ta đánh địch không rút lui. Ta là tông thất, rút lui, mặt mũi nào trở về?" Ông liền suất quân đánh thẳng tới, bị đại quân nhà Minh bao vây, quân Thanh không thể phá vòng vây, ông dẫn quân liều chết xông ra ngoài nhưng thất bại, bị xa vào vũng lầy. Hết cung tên, ông tiếp tục dùng đao để chiến đấu đến khi kiệt sức mà tử trận[9].